Chiến lược quốc gia về bảo tồn, phát triển cây dược liệu đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 xác định phát huy thế mạnh, tiềm năng sẵn có để sản xuất, chế biến Đông dược.
Để triển khai chiến lược này, phải tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong khai thác, sử dụng bền vững nguồn dược liệu, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học; góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao thu nhập cho người dân, từng bước chủ động nguyên liệu cung cấp cho ngành công nghiệp dược và y học cổ truyền (YHCT).
Sở hữu nhiều dược liệu quý
Năm 1994, nền y học thế giới đã thông báo một tin quan trọng: lá và vỏ cây thông đỏ có thể chiết xuất ra 2 hoạt chất Taxol và Taxotele chữa bệnh ung thư buồng trứng, ung thư vú, ung thư phổi, xử lý hắc tố... Từ thông tin đó, nước Pháp lập tức triển khai đề tài nghiên cứu khoa học: “Dự án sản xuất thuốc Generic chống ung thư Taxol và Taxotele ở Việt Nam”. Nhiệm vụ này được giao cho nhà khoa học người Pháp gốc Việt - Tiến sỹ Trần Khánh Viễn và dự án đã đem về nguồn thu khổng lồ cho các hãng sản xuất dược ở Pháp. Trong vòng 10 năm, hãng Bristol thu được 11 tỷ USD từ nguồn bán Taxol Myers Squibe, còn Công ty Sanofi Aventis, chỉ riêng bán Taxotele đã thu được 1,7 tỷ USD (năm 2005).
Năm 2006, Bệnh viện Ung bướu TP. Hồ Chí Minh đã phải chi 19 tỷ đồng để mua các biệt dược nói trên. Sau khi biết cây thông đỏ với hàm lượng hoạt chất chữa ung thư cao bậc nhất thế giới, năm 2008, ngành lâm nghiệp Lâm Đồng đã đưa cây này vào diện bảo vệ đặc biệt; mặt khác, khuyến khích các cá nhân, đơn vị mượn đất rừng để trồng cây đặc chủng này. Tuy nhiên, việc bảo vệ quần thể thông đỏ cuối cùng này ở Lâm Đồng vẫn như ánh sáng le lói cuối đường hầm do lâm tặc truy sát suốt ngày đêm. Tại thời điểm công bố thông tin quan trọng trên, Lâm Đồng còn khoảng 300 cây thông đỏ hàng trăm năm tuổi, nhưng nay chỉ còn 100 cây. Đây không những là vùng đất hiếm hoi của Việt Nam mà cả của châu Á còn sót lại quần thể thông đỏ Taxus Wallichian Zucc vô cùng quý hiếm.
Trước đó, trong dân gian, người Việt cũng đã coi thông đỏ là nguyên liệu quý để làm ra một vài loại thuốc, chữa được một số bệnh nan y mà chưa biết tác dụng lớn lao của nó như ngày nay.
Bên cạnh thông đỏ, sâm Ngọc Linh ở Quảng Nam, Kon Tum cũng được đánh giá cao hơn cả sâm của Hàn Quốc. Sâm Ngọc Linh có 26 hợp chất Saponin đã biết và 24 hợp chất Saponin mới không có trong các loại sâm khác, trong khi sâm chỉ có khoảng 25 hợp chất Saponin. Theo đó, sâm Ngọc Linh được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1973 tại Quảng Nam, ở độ cao 1.200 - 2.100m. Đây là loại sâm thứ 20 được tìm thấy trên thế giới, và cũng là niềm tự hào, đóng góp quan trọng nhất của Việt Nam với y học thế giới.
Tuy nhiên, sâm Ngọc Linh cũng có số phận như cây thông đỏ, vì chúng ta chưa chế biến được các sản phẩm từ dược liệu quý thành hàng hóa có giá trị cao và sử dụng rộng rãi trong nhân dân. Trong khi người Hàn Quốc với lợi thế về khoa học kỹ thuật, từ lâu đã ứng dụng nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng, sản xuất ra nhiều loại sản phẩm khác nhau từ sâm và đem về lợi nhuận hàng tỷ đô la Mỹ, thì sâm Ngọc Linh vẫn chỉ ở điểm xuất phát, nghĩa là nghiên cứu ứng dụng trong sản xuất thuốc, còn chủ yếu người dân đang dùng sâm Ngọc Linh để... ngâm rượu.
Còn nhiều, rất nhiều loài dược liệu quý trong kho tàng cây thuốc quý Việt Nam mà trong bài viết ngắn này không thể thống kê.
Công tác bảo tồn: Quy mô nhỏ
Sau gần 30 năm bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn dược liệu, chúng ta đã duy trì được mạng lưới bảo tồn nguồn gen tại 7 vùng sinh thái, bao gồm: Đồng bằng sông Hồng (Hà Nội), Trung du phía Bắc (Tam Đảo), vùng núi cao phía Bắc (Lào Cai), Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa), Tây Nguyên (Đà Lạt - Lâm Đồng), Duyên hải Nam Trung Bộ (Phú Yên) và Đông Nam Bộ (TP. Hồ Chí Minh). Đã khảo sát và xác định được số loài cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn tại các vườn quốc gia: Cát Bà, Núi Chúa, Cát Tiên, Bạch Mã, Bù Gia Mập, Pù Mát và Khu bảo tồn thiên nhiên Vĩnh Cửu. Lưu giữ và bảo tồn 1.531 nguồn gen, thuộc 884 loài cây thuốc tại 7 vườn cây thuốc trong và ngoài ngành y. Đặc biệt, trong công tác bảo tồn đã tập trung vào những loài quý hiếm, những loài vốn trước kia có nhiều, nay bị suy giảm nghiêm trọng, hoặc có nguy cơ đe dọa tuyệt chủng.
Song song với công tác bảo tồn, cần chấn chỉnh việc thu mua, khai thác và thu hái cây thuốc mọc tự nhiên theo hướng phát triển, đi đôi với khai thác hợp lý. Được biết, trong số gần 5.000 loài dược liệu và nấm làm thuốc của Việt Nam, nhiều loài có tiềm năng làm nguyên liệu bào chế thuốc. Kết quả điều tra giai đoạn 2013 - 2015 cho thấy, có khoảng 70 loài, nhóm cây dược liệu có khả năng khai thác ước đạt 18.372 tấn/năm, trong đó 45/70 loài, nhóm có tiềm năng lớn như: diếp cá (5.000 tấn), cẩu tích (1.500 tấn), lạc tiên (1.500 tấn). Trên 500 loài được trồng với mức độ khác nhau, nhiều loài là cây lương thực, thực phẩm, gia vị làm thuốc. Tuy nhiên, trong thực tế mới chỉ có 92 loài cây thuốc được trồng phục vụ nhu cầu thị trường, một số loài đã có chỗ đứng như quế (Yên Bái) 50.000ha, sản lượng 5.000 tấn/năm; hồi 47.000ha (Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn), 10.000 tấn/năm; hòe (Thái Bình, Hưng Yên, Nghệ An) 6.000 tấn/năm; sâm Ngọc Linh (Quảng Nam, Kon Tum) 50ha...
Ngoài ra, vài năm trở lại đây, do nhu cầu thị trường, diện tích và sản lượng một số cây dược liệu đã tăng lên đáng kể: nghệ 5.000 tấn/năm, táo mèo gần 5.000 tấn/năm, thảo quả 2.000 tấn/năm, ba kích 840 tấn/năm... Một số loài khác cũng đang trên đà phát triển như: hà thủ ô, đẳng sâm, bình vôi…, đã có 50/92 loài được trồng với quy mô trên 10ha và một số vùng trồng cây thuốc nhập nội (bạch chỉ, xuyên khung, địa hoàng...) đang từng bước hình thành.
Qua khảo sát thấy, các vùng có lợi thế để phát triển dược liệu là: Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định... Vùng Bắc Trung Bộ: Thanh Hóa, Nghệ An. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ: từ Đà Nẵng đến Bình Thuận. Vùng Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk... Vùng Tây Nam Bộ: An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau... Vùng Đông Nam Bộ: Bà Rịa -Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước… Như vậy, với đất nước có 4 mùa hoa trái như Việt Nam, không địa phương nào không phát triển được cây dược liệu.
Điều đáng ghi nhận là, đã có 11cây dược liệu được các doanh nghiệp trồng theo nguyên tắc, tiêu chuẩn “Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc” GACP - WHO, gồm: Trinh nữ hoàng cung, actiso, bìm bìm biếc, rau đắng đất, đinh lăng, diệp hạ châu đắng, cỏ nhọ nồi, tần dày lá... Hiện, một số doanh nghiệp đang tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để công bố GACP - WHO như: Công ty Dược Lâm Đồng (actiso), Domesco (gấc và nghệ), Traphaco (hoài sơn). BVPharma (kim ngân) và DKPharma (kim ngân, ý dĩ). Tuy nhiên, việc nuôi trồng theo GACP -WHO mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu của doanh nghiệp.
Khó khăn và thách thức còn nhiều
Mặc dù đã đạt được một số thành tích, song, ngành dược liệu nước nhà vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Đó là, cây dược liệu có khả năng khai thác tự nhiên còn rất ít (206 loài); nhiều loài quý hiếm đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt. Trước đây, nhiều loài dược liệu có thể khai thác hàng chục ngàn tấn/năm (hoàng tinh, hoàng liên, đẳng sâm, ba kích…) thì nay đã được đưa vào sách Đỏ. Thậm chí, có cây trước kia là “linh hồn” của dãy Hoàng Liên Sơn (cây hoàng liên) thì nay chỉ còn trong vết tích. Việc khai thác, nuôi trồng dược liệu còn tự phát, quy mô nhỏ, dẫn đến sản lượng không ổn định, giá cả biến động. Nhiều dược liệu không được nuôi trồng theo quy trình, thiếu quy hoạch, hoặc trồng lẫn với vùng lúa, hoa màu. Kỹ thuật trồng, chăm sóc chủ yếu theo kinh nghiệm. Sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, nguồn nước tưới còn tùy tiện. Việc thu hái không tuân thủ theo mùa, vụ và tuổi của cây, làm ảnh hưởng đến chất lượng dược liệu, đồng nghĩa với việc ảnh hưởng đến chất lượng thuốc.
Điều đáng nói ở đây là, chúng ta chưa biết cách thương mại hóa để đưa các bài thuốc quý trong cộng đồng ra sử dụng rộng rãi. Thậm chí, nhiều bài thuốc quý đã bị thất truyền, mai một, hoặc bị đánh cắp, giả mạo. Chúng ta mới dừng lại ở việc xuất khẩu dược liệu dưới dạng thô, dẫn đến giá trị dược liệu thấp. Trong số 357 chuyên luận về dược liệu, thuốc dược liệu cổ truyền trong Dược điển Việt Nam, chỉ có 3 chuyên luận về dược liệu chế biến. Công tác quản lý dược liệu còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là chất lượng dược liệu nhập khẩu. Nguyên nhân do hệ thống chính sách phát triển dược liệu đã được xây dựng nhiều nhưng khi kiểm tra thiếu đồng bộ, chưa kịp thời như: chính sách quản lý, khai thác dược liệu tự nhiên, chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, nuôi trồng, chế biến, sử dụng dược liệu và phát huy giá trị các bài thuốc cổ truyền...
Ngoài ra, nguồn tài nguyên dược liệu còn có nguy cơ cạn kiệt do nạn chặt phá rừng, khai thác quá mức, chưa đi đôi với việc tái tạo, bảo tồn. Nhiều loài quý hiếm bị thương lái thu mua theo kiểu tận thu, vận chuyển lậu qua đường biên giới, dẫn tới chảy máu trầm trọng nguồn dược liệu nước nhà. Chưa gắn kết chặt chẽ giữa nuôi trồng, sản xuất với nhu cầu thị trường, dẫn đến có lúc dược liệu tăng giá gấp vài chục lần, vì trồng ít mà nhu cầu sử dụng và xuất khẩu tăng. Ngược lại, có lúc trồng nhiều nhưng không có người mua dẫn đến tình trạng phải chặt bỏ.
Hy vọng, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nỗ lực của người dân, doanh nghiệp, cây dược liệu Việt Nam sẽ sớm có chỗ đứng trong nước và trên trường quốc tế.
Tác giả bài viết: Chu Vũ Giáp (cập nhập)
Nguồn tin: kinhtenongthon.com.vn
VĂN PHÒNG ĐIỀU PHỐI CHƯƠNG TRÌNH NÔNG THÔN MỚI HƯNG YÊN
Địa chỉ: Số 01 Đường Nguyễn Lương Bằng - P. Hiến Nam - TP. Hưng Yên - Tỉnh Hưng Yên
Số điện thoại: 02213.3512388/ 02213.3511068